Giới thiệu bạn đọc cuốn ebook "Triết Học Hiện Sinh":
Trong lịch sử triết học, từ cổ chí kim, triết hiện sinh là trường hợp duy nhất người ta thấy “triết học đã xuống đường: triết học đã xâm nhập vào văn học quần chúng (tiểu thuyết, báo chí, kịch nghệ) và vào đời sống của giới trẻ (các quán cà phê hiện sinh nơi Sartre đàm đạo triết học với bạn bè và các đệ tử, các cái hầm hiện sinh nơi thanh yên nam nữ sinh hoạt văn nghệ và nhảy nhót). Sở dĩ có hiện tượng này, vì Jean-Paul Sartre, một trong 4 triết gia hiện sinh vừa là một triết gia, vừa là một văn sĩ có tài. Ông đã có hai bộ sách triết học rất nặng ký: L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) và Critique de la Raison dialectique (Phê bình lý trí biện chứng). Đại đa số giới trẻ Pháp, kể cả các sinh viên Đại học, không đọc nội 2 bộ sách này nhưng họ say mê với tư tưởng của Sartre qua những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn rất hấp dẫn của ông.
Hiện tượng “triết học xuống đường” như thế chỉ là cái bề nổi, cái bọt bèo của triết học hiện sinh. Bởi vì ai cũng biết triết học là môn học khó nuốt nhất, đòi hỏi nhiều suy tư nhất. Bản chất của triết học là phản tỉnh, là suy tư, là đánh giá về hành vi, đánh giá về cuộc đời con người. Chính Sartre đã nói rõ: Hành động thì không thể suy tư, mà suy tư thì không thể hành động: Khi tôi đếm tiền, tôi là sự đếm tiền, tôi không thể ý thức về việc tôi đếm tiền; và khi tôi phản tỉnh, nghĩa là khi tôi nghĩ về việc mình đếm tiền, thì tôi không thể đếm tiền được nữa. Cho nên văn học Hy Lạp, và nay văn học Tây phương, lấy chim cú làm biểu tượng cho triết gia. Chim cú chỉ hoạt động ban đêm, nó nhìn rõ trong đêm tối, khi mà con người và đại đa số các loài vật không nhìn thấy gì nữa. Con người sinh hoạt (ban ngày), còn triết gia thì suy nghĩ về sinh hoạt của con người, sau khi đã sinh hoạt (ban đêm).
Tại Việt Nam trước đây, phần lớn giới văn học, nhất là giới trẻ, đã chỉ biết về triết hiện sinh qua “phong trào hiện sinh”, tức văn chương hiện sinh và lối sống hiện sinh, mà đó chỉ là bọt bèo của triết học hiện sinh. Xin hỏi đã có mấy ai biết đến, chứ đừng nói đọc nổi cuốn “Hữu thể và Hư vô” của Sartre? Cho nên báo chí và thơ văn “hiện sinh” đâu đã phải là triết học hiện sinh của Sartre? Mà Sartre đâu đã phải là thành phần chủ chốt của triết học hiện sinh? Bởi vậy lên án triết học hiện sinh như người ta đã làm là vơ đũa cả nắm. Khi viết loạt bài đăng trên tạp chí Bách Khoa, từ tháng 10 năm 1961 đến tháng 9 năm 1962, và sau đó in thành cuốn “Triết học hiện sinh” (1967), tôi đã nhấn mạnh về sự khác biệt lớn lao giữa hai ngành hiện sinh, giữa các triết gia được xếp vào nhóm hiện sinh. Tôi đã nói chỉ triết học Sartre là triết hiện sinh theo nghĩa chặt, vì chỉ mình ông tự nhận là “Hiện sinh chủ nghĩa”, trong khi đó Jaspers xác định triết của ông là “triết học về hiện hữu” (philosophie de l’existence), Heidegger thì gọi triết học của mình là “triết học về hữu thể” (philosophie de l’être), và sau cùng G.Marcel muốn người ta gọi triết học của ông là một “Tân phái Socrate” (Néo-Socratisme).
Hôm nay, hơn 40 năm sau khi cuốn “Triết học hiện sinh” của tôi ra mắt các độc giả, và sau hơn 40 năm khi phong trào hiện sinh đi vào lịch sử, đi vào dĩ vãng, chúng ta còn thấy những gì của nó? Tôi nhớ một câu nói thời danh của Paul Valéry khi bàn về trình độ văn học của một con người: “Văn học của một người là những gì còn lại, khi người đó đã quên đi tất cả những gì đã học và đã đọc”. Nghĩa là đã “tiêu hóa”, đã hấp thụ tất cả những gì mình đã học và đã đọc. Nay sau những va chạm và những tác động qua lại với các nền tư tưởng mới như thuyết Cấu trúc, thuyết Giải thích, chúng ta thấy triết Hiện sinh còn để lại những gì cho nhân loại? Chúng tôi thấy hình như chỉ mình Heidegger vẫn còn được coi là ánh sáng soi đường, là thầy dạy suy tưởng cho chúng ta hôm nay. Nhất là Heidegger của cuốn “Kinh và vấn đề Siêu hình học”, cuốn sách dẫn thẳng vào khoa Nhân học là hướng đi hiện nay của nền triết học Tây phương. Tất nhiên Ed.Husserl, với khoa Hiện tượng học của ông, cũng vẫn được coi là tôn sư của công việc suy tư triết học.
Triết học hiện sinh đã ghi dấu đậm trong lịch sử triết học. Nói gì thì nói, nó đã là triết học nổi bật nhất của thế kỷ XX. Trước nó, những năm đầu thế kỷ XX cho đến khi nó chào đời, Âu châu đã trải qua những năm sinh hoạt triết học trầm trầm và buồn tẻ. Triết hiện sinh đã xuất hiện rầm rộ, gần như một tiếng sấm vang động cả trời đất, lay động xã hội Tây phương một cách mạnh mẽ như chưa từng thấy trong lịch sử. Dầu bị xấu tiếng phần nào do cái bọt bèo của nó, do cách sống quá tự do của “phong trào hiện sinh” của những kẻ “ăn theo”, triết hiện sinh vẫn giữ được những giá trị đích thực của nó với những đề tài đặc trưng của nó như: Tự do, tự quyết, quyết chọn (option), vươn lên, độc đáo, thân phận con người, dấn thân… Cho nên gạt qua một bên cái phần bọt bèo của nó, triết hiện sinh nói chung, dầu là triết học Sartre, dầu là triết học Heidegger hay Jaspers, vẫn là triết học về con người, về cái gì làm nên bản thể con người. Có thể nói triết Hiện sinh là một hình thức của khoa Nhân học là mô hình của triết học hiện nay, một hình thức chỉ mới được phác họa, chưa có những phân tích cấu trúc có tính phương pháp của khoa Nhân học hôm nay.
Tóm lại, phải công nhận rằng triết học Hiện sinh đã đóng vai trò lịch sử của nó một cách khá tốt đẹp. Điểm son của nó là đã tạo nên được cả một phong trào rộng lớn và sôi nổi trong giới văn học. Tiểu thuyết và báo chí hiện sinh, tuy chưa phải là triết học hiện sinh, và tuy vô tình đã gây nên lối sống quá tự do nơi một thành phần thanh thiếu niên, nhưng cũng đã gợi hứng cho nhiều thanh niên biết suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, đừng “sống thừa ra” (survivre), sống không lý tưởng, sống như cây cỏ, như một con vật đẹp…
Như tôi đã viết trong “Lời nói đầu” khi xuất bản cuốn Triết học hiện sinh (1967), “tôi đã viết loạt bài trình bày về triết học hiện sinh cho giới hiếu học… Tôi đã cố gắng viết sao vừa dễ hiểu, vừa không đơn giản hóa những vấn đề phức tạp”. Tôi đã viết những trang sách này trong cả một năm trời, với cả một đống sách tham khảo: Đó là những tác phẩm chính yếu của những triết gia mà tôi nghiên cứu và trích dẫn: Những bộ sách của Kierkegaard, của Nietzsche, của Husserl, của Jaspers, của Gabriel Marcel, của Sartre và của Heidegger. Và cũng như tôi đã trình bày trong Lời nói đầu đó, “tôi thường trích dẫn những đoạn văn điển hình của các triết gia đó. Khi trích dẫn như vậy, tôi riêng nghĩ đến các bạn sinh viên: Tôi muốn họ dần dần làm quen với lời văn của các triết gia này, để đỡ ngại ngùng khi phải đích thân đọc vào các tác phẩm đó”.
Viết đến đây, tôi tự nhiên cảm thật buồn cho việc học và nghiên cứu của các sinh viên triết học hôm nay: Lực đọc sách ngoại ngữ (tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức) của sinh viên ngày nay rất kém, mà các tác phẩm triết học được dịch sang tiếng Việt thì đếm chưa hết mấy ngón tay của một bàn tay. Vậy mà bao lâu các sinh viên chỉ học biết các triết thuyết qua các giáo trình và những cuốn sách Việt ngữ viết về các triết gia, thì sự hiểu biết của họ không thể nào vững chắc và sâu sắc được
Rồi việc dịch các tác phẩm triết học cũng không đơn giản chút nào. Tôi nhớ hồi năm 1962, ông Lý Chánh Đức, Giám đốc Thư viện Quốc gia, nhờ tôi duyệt bản dịch của ông Pa.K.Ng., dịch cuốn Méditations métaphysiques của Descartes. Nghe đâu ông Ng. đậu kỹ sư cầu đường tại Paris, cho nên lực học Pháp văn của ông không ai dám nghi ngờ. Nhưng khi ông kỹ sư cầu đường dám bạo gan dịch một tác phẩm triết học thì xảy ra lắm chuyện lắm. Ông dịch nhan đề cuốn sách là “Những trầm tư mặc tưởng siêu hình học” thì cũng còn có thể chấp nhận được, nhưng khi dịch nội dung cuốn sách, ông đã làm tôi và mấy giáo sư triết cười bể bụng. Tôi nhớ nhất là chỗ Descartes nói đến chủ trương của Aristote về bản chất của vạn vật: Cụm từ “la substance et les accidents” của Aristote đã được ông Ng. dịch là “bản chất và những chỗ lồi lõm”. Đúng là danh từ cầu đường! “les accidents” của Aristote làm ông Ng. nghĩ ngay đến “les accidents de la route” (những chỗ lồi lõm của đường sá), trong khi đáng lý phải dịch là: Bản thể và các tùy thể.
Coi vậy, chứ dịch sách khó lắm các bạn ơi! Gần đây nhiều lần đài RFI của Pháp phỏng vấn các nhà phê bình văn học Việt Nam tại Hà Nội, đều được nghe các ông than phiền về việc các tác phẩm văn học Pháp dịch sang tiếng Việt những năm gần đây quá kém chất lượng. Vậy trở lại vấn để dịch, nhất lại là dịch sách triết học, chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Dịch là một nghệ thuật. Và dịch thuật chỉ có hai nguyên tắc và cả hai nguyên tắc đều quan trọng như nhau: Một là trung thực (fidélité) đối với nguyên tác, và hai là dễ hiểu (intelligibilité) đối với độc giả. Thiếu trung thực, tác phẩm dịch kể như bỏ. Thiếu dễ hiểu, tác phẩm dịch sẽ rất khó sử dụng, vậy thì làm sao hữu dụng và hữu ích?
Một lần nữa, tôi chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Văn Học và các học trò cũ của tôi tại các Đại học Văn Khoa Sài Gòn, Huế và Đà Lạt, các bạn Nguyễn Quang Tuyến, Lê Nguyên Đại và Dương Anh Sơn, đã góp công sức rất nhiều cho việc tái bản lần này của cuốn Triết học hiện sinh của tôi.
Bình Thạnh, ngày 15 tháng 7 năm 2005
TRẦN THÁI ĐỈNH
Tham khảo thêm: Triết học Kant
Tham khảo thêm: Triết học Mỹ
Tham khảo thêm: Triết Học Nhân Sinh Của Tôi
Tham khảo thêm: Triết Học Nhân Sinh
Tham khảo thêm: Triết Học Thế Kỷ XX
Thẻ từ khóa: Triết Học Hiện Sinh, Triết Học Hiện Sinh pdf, Triết Học Hiện Sinh ebook, Tải sách Triết Học Hiện Sinh