Giải mã truyện tây du ký của Lê Anh Dũng
Chuyên mục: Truyện tranh
Tây du ký là câu chuyện trường thiên về hành trình qua phương Tây thỉnh kinh của năm thầy trò: Tam tạng, Tề thiên, Bát giới, Sa tăng, và con ngựa trắng.
(Link tải sách cuối bài viết)
Thông thường, người ta sơ ý, chỉ
kể có bốn, quên đi con ngựa, nguyên là con rồng
ngọc (ngọc long), thái tử thứ ba, con của Tây
hải Long vương Ngao Nhuận. Quên kể đến
ngựa rồng, phải chăng vì vai trò đỡ chân
cho Đường tăng của ngọc long tam thái tử
hình như có vẻ lu mờ? Hay quên kể, vì không
thấy ở Tây du ký tản mác ẩn ngữ nơi này,
rải rác ẩn dụ nơi kia, mà ngòi bút của Ngô
Thừa Ân đã ung dung viết như giỡn chơi, như
bông đùa, mà ý hàm tàng thì rất thực. Và nên
hiểu chỗ thực trong cái hư của Tây du ký,
nét nghiêm trang trong vẻ bỡn cợt của Ngô Thừa
Ân như thế nào?
Tây du ký là truyện xuất thế gian, do đó
không có dấu ấn của Nho giáo, vì Nho giáo về cơ
bản là đạo nhập thế, thuộc phạm vi hình
nhi hạ học mà ngày nay Cao Đài gọi là ngoại giáo
công truyền (exoterism).
Đọc Tây du mà bảo Ngô Thừa Ân có cái
gọi là tư tưởng chống Trời, chống thiên
tử, tức là đã quên đi ngay từ ban đầu
câu chuyện xuất gia, thỉnh kinh vốn đã hàm
ngụ ý ngoại thế gian pháp.[1]
Tây du nào có chống ai đâu, vì Tây du là câu
chuyện ngụ ngôn, đem chuyện thỉnh kinh để
diễn bày tư tưởng thiền học giải thoát
trong đạo Lão, đạo Phật, thuộc phạm vi
hình nhi thượng học mà ngày nay Cao Đài gọi là
nội giáo tâm truyền (esoterism).
Muốn đọc Tây du, hiểu Ngô Thừa Ân,
cần thiết biết đọc giữa hai hàng chữ,
nắm lấy bốn chữ ý tại ngôn ngoại (ý
ở ngoài lời).
Như chép ở kinh Viên giác, Phật bảo
lấy ngón tay chỉ trăng, nếu đã thấy
mặt trăng thì có thể biết rằng phương
tiện để chỉ trăng rốt cuộc chẳng
phải là mặt trăng. Trang tử khuyên: «Có nơm vì
cá, đặng cá hãy quên nơm. Có dò vì thỏ, đặng
thỏ hãy quên dò. Có lời vì ý, đặng ý hãy quên
lời.»
Thế thì, vượt lên trên mọi hư cấu văn
chương của Tây du ký với tài hí lộng
chữ nghĩa của Ngô Thừa Ân, cuộc thỉnh kinh
của Đường tăng thực chất là chi?
Đường tăng là ai đó? Nước Thiên Trúc
với chùa Lôi âm ở đâu?
Sẽ là sửng sốt nếu nói rằng Đường
tăng vẫn còn đang thỉnh kinh dù đã thỉnh
kinh xong rồi từ vạn cổ. Tề thiên đã hàng
phục xong thiên ma vạn quỷ, đã cởi được
kim cô niệt đầu, đã được Phật
tổ tán thán là Đấu chiến thắng phật
ở giữa bửu điện trang nghiêm của chùa Lôi
âm, nhưng Tề thiên vẫn còn đang và vẫn sẽ
còn tiếp tục vất vả đánh nhau với yêu tinh
ma quái. Mãi mãi cuộc chiến đấu vẫn chưa
xong. Tề thiên nào đã thành phật? Tề thiên nào chưa
thành phật? Yêu ma nào đã quy hàng? Yêu ma nào còn chưa
ngừng dấy động phong ba? Nước Thiên Trúc
với chùa Lôi âm không ở về phương Tây, và cũng
không phải là một địa danh trên bản đồ
kim cổ. Vậy, cuộc thỉnh kinh đi về phương
trời nào viễn xứ?
Nên ta thử hỏi lớn tiếng rằng: Đường
tăng! Anh là ai? Câu hỏi ấy phải chăng
xấc xược? Sao lại dám xưng hô với
Đường tăng là... Anh? Ta cứ hỏi nữa:
Đường tăng! Anh là ai?
Cũng là ta hỏi chính ta đó thôi. Mỗi một
người trong chúng ta đều là Đường tăng.
Mỗi thời đại của quá khứ, hiện
tại và vị lai đều có Đường tăng,
đều vẫn đã, đang và sẽ còn tiếp
tục thỉnh kinh. Cuộc thỉnh kinh chính là hành trình
đầy trắc trở của mỗi người trong
chúng ta truy tầm Chân lý - tìm cái mà Lão tử gượng
cho là Đạo, gọi tên là Xích tử chi tâm,
Phật mệnh danh là Bổn lai diện mục, và
Cao Đài ngày nay bảo là Nhân bản hay Thượng
đế tính - vốn dĩ đã sẵn tàng ẩn
trong mỗi con người.
Đi về đâu để có được Chân lý
đó? Thiên Trúc ư? Hà xứ tại? Thưa rằng nước
Thiên Trúc ấy nào có đâu xa và con đường
thỉnh kinh cũng chẳng phải là hành trình từ phương
Đông qua phương Tây diệu vợi. Vương Dương
Minh bảo: Vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Ngô
Thừa Ân ám chỉ: Thiên Trúc là thân ta, thân ta là Thiên Trúc.
Kinh báu chùa Lôi âm là hình ảnh tượng trưng cho Chân
lý, nó nằm trong tự thân nội thể con người.
Cuộc thỉnh kinh vì vậy là con đường quy hướng
về nội tâm của mỗi người, là hành trình
phản tỉnh nội cầu, quay lại nhìn vào chính
nội thân của mình, tìm thấy trong chính ta cái chân lý:
Người là một thiêng liêng tại thế, cùng
với Trời đồng thể linh quang (ánh sáng thiêng
liêng).
Do đó phải nói rằng bộ phim Tây du ký
hai mươi lăm tập của nữ đạo
diễn Trung Quốc Dương Khiết đã rất tài
tình khi nhạc mở đầu cho phim là bài hát «Con
đường nào ta đi...» Con đường
thỉnh kinh là đường trở về nội tâm. Trên
con đường cô đơn đó, ta là Đường
tăng, và ta cũng là Tề thiên, Sa tăng, Bát giới,
long mã. Như vậy cuộc thỉnh kinh phải bắt
buộc đủ bộ năm thầy trò. Thiếu
một là không được! Nhưng năm mà một: là
một con người với năm phương diện.
Long mã
Con ngựa mà vua Đường cấp cho Đường tăng bắt buộc phải chết đi, để đem thay bằng ngựa thần, ngựa rồng. Ngựa là xác thân. Ngựa thần là xác thân cương kiện. Một tinh thần minh mẫn trong một xác thân tráng kiện. Con người đi tìm Chân lý, tìm Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh. Không có ngựa tốt thì Đường tăng không tới được Lôi âm. Người mà thể xác bịnh hoạn, tinh thần ươn hèn thì làm sao có thể quyết tâm chiến đấu để đạt tới Chân lý, đạt Đạo?
Sa tăng
Sa tăng là tánh cần cù, nhẫn nại. Ngô Thừa Ân bắt Sa tăng phải nhọc nhằn gánh hành lý là lẽ ấy. Tề thiên mấy bận giận Thầy, mấy phen đào nhiệm, từng quay về Thủy liêm động quê xưa; Bát giới nào có thua, đã trăm lần ngàn lượt cứ lẻo nhẻo đòi chia của, rồi mạnh ai đường nấy, chàng về cố thổ lấy vợ cho xong. Chỉ riêng có Sa tăng suốt cuộc hành trình thiên ma bách chiết, vào yêu ra quỷ, một lòng một dạ quảy hành trang tiến tới. Không một lời thối lui. Không một lòng biến đổi. Sa tăng là hình ảnh của tinh tấn, trì thủ, tâm bất thối chuyển. Dù khó khăn đến đâu, đã quyết rồi, thì cứ đi tới. Khí giới của Sa tăng vì thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén nhọn, để mà dễ dàng găm chặt vào, ghim chặt vào. Chí đã định rồi thì không biến đổi, lòng đã quyết rồi thì chẳng chuyển lay. Pháp danh của Sa tăng vì thế là Ngộ tịnh: tịnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tịnh để mà kham nhẫn, chịu đựng.
Bát giới
Bát giới là tánh tham. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình. Khí giới của họ Trư vì thế phải bắt buộc là đinh ba, là cào cỏ, để mà vơ vào cho nhiều, cho vừa lòng tham dục. Bát giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. Có lẽ vì thế mà pháp danh của chàng là Ngộ năng.
Tề thiên
Tề thiên là trí, lý trí. Bộ phim Tây du của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết cho thấy đạo diễn dường như đã hiểu được vai trò quan trọng của Tề thiên. Lý trí phải dẫn dắt, phải soi đường cho hành động. Thế nên, trong phim, luôn luôn vai Tề thiên đều đi trước, để dẫn đầu mấy thầy trò.
Lý trí ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối,
chẳng chịu thua kém nhường nhịn ai. Cho nên
Tề thiên coi mình to ngang với Trời (Tề thiên:
bằng Trời), và muốn lên trời xuống biển,
quậy phá đều làm được tất, không chút
đắn đo, chẳng hề ngần ngại. Đối
với Trời vẫn tự xưng «Lão Tôn» là tánh kiêu
căng. Trước mặt Trời vẫn nghinh ngang, đứng
xổng lưng không chịu quỳ, ăn nói lôi thôi
bất kể tôn ti trật tự, đó là tượng trưng
cho đầu óc duy lý của những người muốn
phủ nhận Thượng đế.
Lý trí ưa phân biện, cho nên Tề thiên mới có
con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái là thấy rõ
bản chất và hiện tượng, biết ngay ai đúng
là căn tiên cốt phật, ai đậy che dáng quỷ hình
ma. Lý trí cũng thích đả phá, ưa đả kích,
cho nên khí giới của Tề thiên phải là thiết
bổng (gậy sắt), để mà đập phá. Pháp
danh của Tề thiên vì thế là Ngộ không: Không (sunyata)
để mà siêu vượt lên mọi đối đãi
của thế giới sắc tướng và thế
giới phi sắc tướng.
Lý trí, tư tưởng đã suy xét, đã vận
động thì ôi thôi, thiên biến vạn hóa. Cho nên
thiết bổng của Tề thiên khi nặng thì nặng
vô cùng, mà lúc nhẹ thì nhẹ hơn mảy lông,
muốn to nhỏ ngắn dài tùy ý, nhét gọn lỗ tai cũng
xong, thế nào cũng được. Đó cũng là tư
duy, ngôn ngữ, lý lẽ của con người. Hay cũng
nó. Dở cũng nó. Bóp méo, vo tròn đều được
cả. Đó vốn là nghề của chàng.
Lý trí vì những «thuộc tính» như thế nên
cần thiết phải được uốn nắn luôn
luôn cho hợp với kỷ cương, khuôn phép. Tề
thiên bởi vậy mà phải đội kim cô. Tuy nhiên,
khi về tới chùa Lôi âm, thành phật rồi, không
cần cởi, vòng kim cô tự lúc nào đã biến
mất. Cái trí con người khi đã thuần dưỡng
thì không cần kỷ luật nó vẫn vận động
đúng. Giống như trẻ con mới đi học,
tập viết phải có giấy kẻ hàng đôi, đến
chừng lớn lên viết giỏi rồi, giấy
chẳng vạch hàng kẻ ô vẫn dễ dàng viết
ngay ngắn.
Cái trí của con người còn có một đặc
điểm là xẹt rất lẹ, phóng rất nhanh,
cực nhanh. Ngồi ở Sài Gòn mà có thể lan man nghĩ
ngợi tới tận đâu đâu, như chu du năm châu
dạo cùng bốn biển; chuyện mấy chục năm
quá khứ, chớp mắt một cái là cả cuốn phim
dĩ vãng trường thiên vùn vụt hiện về.
Diễn tả ý này, truyện Tây du bảo Tề thiên
có được phép cân đẩu vân, «mỗi cân
đẩu vân đi được mười vạn tám
nghìn dặm» [TDK I 1982: 63]. Con số 108.000 dặm ngoài
ý nghĩa tượng số học [3]
còn nhằm ám chỉ tốc độ khủng khiếp
của tư tưởng con người.
Đường tăng
Đường tăng là con người có lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ. Truyện Tây du chưa lột được cái đấu tranh ghê gớm của Đường tăng ở Tây Lương nữ quốc và khi chàng rơi vào tay yêu nữ động Tỳ bà [TDK VI 1988: 88-92, 108-109], thì bộ phim Tây du của Trung Quốc đã dàn dựng rất đạt những thử thách này. Đường tăng trong hai đoạn phim ấy hoàn toàn là một con người bằng xương bằng thịt, có giới hạn mà bản thân Đường tăng không thể vượt qua, nếu không được Tề thiên giải cứu kịp thời.
Đường tăng còn có tánh phàm, u mê, nhu nhược,
ba phải. Đọc truyện hay xem phim Tây du ai cũng
dễ thấy ghét... chàng. Một trăm lần Tề thiên
cản: Yêu ma đấy, Thầy chớ có cứu. Và
đủ một trăm lần Đường tăng cãi,
cứ cứu, để rồi mắc nạn vương
tai. Đó là nhận giặc làm con vì sự nhận
thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng
gọi sáng suốt của lý trí.
Đường tăng cứ lặp đi lặp
lại những sai lầm của mình, và không có sai
lầm nào giống sai lầm nào. Con người cũng
thế, cứ đi từ sai lầm này đến sai
lầm khác mà thôi, nếu không nghe theo lý trí, lương
tâm mà chỉ biết chìu theo vọng tâm, tình cảm
nhất thời.
Trong các đệ tử, Đường tăng thường
«cưng» ai nhứt? Chàng vốn tỏ ra cưng Bát
giới hơn cả. Bát giới tượng trưng cho các
bản năng dục vọng tiềm tàng trong tâm mỗi
người; vậy, phải chăng chính ta, ta vốn
vẫn thường có xu hướng nhắm mắt
đưa chân, phớt lờ cái lẽ đúng mà nuông chìu
theo thói hư tật xấu của mình?
Trong Tây du, luôn luôn xảy ra những mâu
thuẫn có khi gay gắt giữa Tề thiên và Đường
tăng, khiến cho thầy trò phải mấy phen chia lìa,
thậm chí ngay khi Tề thiên mới bái Đường tăng
làm sư phụ xong mà đã vội giận dữ bỏ
đi [TDK II 1982: 84]. Đó cũng là cách biểu tượng
hóa những đối nghịch giữa lý trí với tình
cảm, cảm tính.
Cà sa và tích trượng
Đường tăng rõ ra là lương tri, nhưng tiếng nói của lương tri nhiều khi quá yếu mềm trước những sức mạnh đối kháng. Ngoài cái lý trí (là Tề thiên) chống đỡ, bảo vệ, Đường tăng còn cần phải được trang bị thêm hai phương tiện hữu hiệu để hộ thân, tự vệ. Đó là cà sa và tích trượng.
Cà sa là áo giáp chở che, tích trượng để
thêm sức cho đôi chân vững vàng trụ lập. Cà sa
và tích trượng ấy chính là đạo đức chân
chánh của con người. Có đạo đức, con người
đủ khả năng tự phòng thủ, tự bảo
vệ mình khỏi sa chân vào tội lỗi lạc lầm,
tránh xa được sự trừng phạt của
ngục hình đày đọa. Cho nên, khi Phật tổ Như
lai sai A nan và Ca diếp mang áo cà sa gấm và tích trượng
chín vòng trao cho Quan âm Bồ tát, đã dặn dò rằng: «Tấm
áo cà sa và cây gậy này đưa cho người lấy
kinh dùng. Nếu người ấy (...) mặc tấm áo cà
sa của ta, thì thoát khỏi luân hồi; cầm gậy tích
trượng của ta thì không bị hãm hại.» [TDK I
1982: 190]. Và khi ở kinh thành Trường An, giải
thích chỗ quý báu của cà sa, Quan âm Bồ tát cũng
bảo: «Mặc tấm áo cà sa của ta thì không bị
đắm chìm, không sa địa ngục, không gặp tai
ương ác độc, không bị hoạn nạn sói
lang.» [TDK II 1982: 36]
Trong bộ phim Tây du hai mươi lăm tập
của Trung Quốc, nữ đạo diễn Dương
Khiết có lẽ đã hiểu tường tận ý nghĩa
cà sa là áo giáp đạo đức hộ thân, cho nên
rất tài tình khi dàn dựng cảnh yêu nữ động
Tỳ bà quyến rũ Đường tăng sa vào
sắc dục. Lúc ấy Đường tăng như
trong cơn mộng du, lảo đảo bước gần
tới vòng tay yêu nữ đón mời, và mảnh cà sa
đỏ rực bỗng nhẹ tênh, vuột bay khỏi thân
Đường tăng. Còn tấm áo, Đường tăng
còn an ổn; áo vuột rơi rồi, tội lỗi
mở cửa chực chờ. Đạo đức mất
đi, cái xấu chen vào.
Yêu tinh
Yêu tinh quỷ quái hằng hà sa số cản đường ngăn lối cuộc thỉnh kinh cũng là những thói hư tật xấu của chính ta. Yêu tinh có hai loại. Có thứ là giống chồn cáo, rắn rít, cọp beo... biến thành. Hình ảnh này là ẩn dụ con người luôn luôn đương đầu với cái xấu, cái ác, các nghịch cảnh từ bên ngoài tác động vào bản thân. Loại yêu quái này luôn luôn bị Tề Thiên đập chết, không ai cứu chúng. Trên nẻo đường truy cầu Chân lý, tìm Đạo, con người phải dũng mãnh, nghị lực, quyết tâm san bằng mọi trở lực, chướng ngại ngoại lai để đạt cho kỳ được cứu cánh chân lý của mình. Dứt khoát không khoan nhượng.
Nhưng... lại kỳ quặc hơn, có thứ
quỷ quái mà Tề Thiên vừa vung thiết bổng định
đập chết, thì liền có tiên này phật kia
hiện ra cản lại, xin tha mạng chúng để
rồi mang về thượng giới quản lý. Loại
yêu này xét lý lịch đã rõ, vốn là các con thú con
vật mà các vị ở cõi trời nuôi giữ, chẳng
may để sổng, nên chúng lẻn xuống trần làm
tinh ma quái quỷ.[4]
Có người xem phim hay đọc truyện Tây du,
gặp những chỗ như vậy, liên hệ gần xa
rồi nhếch miệng cười: Tưởng sao, cũng
là một kiểu «xử lý nội bộ»!
Loại yêu có «ô dù» cỡ bự như vừa nói, chính là cái xấu, cái ác, cái chướng ngại cản ngăn nội tại. Chúng nằm trong chính ta, và là một phần của ta. Giết chúng đi là giết ta ư?
Một hình ảnh hai cuộc đời
Phật bảo: Hồi đầu thị ngạn. Quay đầu nhìn lại sẽ thấy ngay bến bờ giác ngộ. Buông dao đẫm máu xuống, mười tám ông ăn cướp lập tức hóa ra thập bát la hán. Con người là một hình ảnh hai cuộc đời. Trong ta là sự tồn tại của hai mặt đối lập lẫn nhau. Ta là Giê-xu mà ta cũng là Lu-xi-phe chúa quỷ. Ta là Thích ca, Lão tử mà ta cũng thừa sức bày trò ngạ quỷ, giở thói súc sanh. Trong ta vừa có thiên đàng, niết bàn cực lạc, vừa có cả hỏa ngục, a tỳ.
Trong cuộc chiến đấu để đạt
tới Chân lý, con người có thể chuyển hóa cái
ác thành cái thiện. Hôm trước còn là Hồng hài nhi
hung tợn, khoái ăn thịt người thì hôm sau đã
là Thiện tài Đồng tử trang nghiêm, cung kính
hầu cận một bên Quan âm Bồ tát.[5]
Bữa nọ còn làm yêu quái tụm bầy chận
đường bắt người cướp của,
ăn tươi nuốt sống, thì bữa nay đã thành
voi thần, sư tử thánh đỡ chân cho Phổ
hiền và Văn thù Bồ tát nơi cõi phật [TDK VIII
1988: 173-174].
Tánh tham là xấu, nhưng thay vì tham cái vị kỷ đê hèn, biết tham làm cái vị tha ích quốc lợi dân, thì tham ấy Chúa, Phật cũng tham. Tánh sân giận đáng chê, nhưng thay vì cái giận khí huyết của lòng ty tiểu, biết giận cho cái bất bằng chính nghĩa, thì giận ấy Lão Đam, Khổng tử cũng xá dài bái phục.
Phân biệt hai hạng yêu tinh nội tại và
ngoại lai như thế, người đọc truyện
Tây du thử gẫm lại vì sao luôn luôn khi Tề
thiên gặp yêu quỷ đều tróc Sơn thần,
Thổ địa để truy tầm ngọn nguồn,
gốc tích con yêu ở đâu. Cho dù đang thua sức lũ
yêu, mà một khi đã nắm chắc lý lịch của
chúng rồi thì trăm lần đánh là trăm lần
thắng. Chuyển bại thành thắng là sau khi đã
điều tra, xác minh lý lịch xong xuôi. Sao lạ
vậy? Cái xấu, cái ác vốn muôn đường nghìn
lối, thiên hình vạn trạng. Con người phải
biết nó từ đâu tới, do đâu mà ra. Như
thầy thuốc giỏi, trị bịnh phải biết
trị tận gốc chứ không trị ngọn.
Đi tìm nghịch lý
Tây du thoạt xem, tưởng đâu rặt chuyện nghịch lý, vô lý. Tại sao Tề thiên náo loạn thiên cung, cõi trời nghiêng ngửa, vậy mà lắm phen cam đành thất điên bát đảo với lũ yêu ma? Tề thiên không ngán Lão tử, thế sao chẳng trị nổi con trâu xanh của Lão tử sổng chuồng ở núi Kim Đâu? [TDK V 1988: 227-247; TDK VI 1988: 5-51]
Tề thiên tuy có con mắt lửa tròng vàng, nhìn
một cái biết ngay chân tướng yêu ma nhưng không
phải luôn luôn đều dễ dàng chế ngự
được yêu ma. Phải lắm phen cất công đi
tìm phật, tiên, bồ tát cứu nạn. Bồ tát và
phật tiên trong Tây du tượng trưng cho đạo
đức chơn chánh. Vậy, phải chăng lý trí tuy có
khả năng xét suy phân biện phải trái rạch ròi,
nhưng chưa đủ mạnh mẽ? Đối với
tha nhân, sửa chữa cái xấu, cải tạo cái ác có
khi không bằng lý lẽ, hay sức mạnh, mà phải
cảm hóa bằng đạo đức nghĩa nhân. Còn
với chính bản thân, có những cái xấu, cái ác mà lương
tri, lương tâm đã tự biết là xấu, là ác, là
không nên nhúng tay vào, nhưng con người lại quá
yếu đuối, thường không đủ sức cưỡng
lại nổi những ham muốn mãnh liệt, đành buông
xuôi. Khi đó, chỉ còn có nhân nghĩa đạo đức
là chiếc phao cuối cùng cho khách hồng trần bấu
víu để khỏi đắm chìm trước cơn
phong ba bão táp của hải hà dục vọng.
Phật tiên hay Thượng đế cõi trời còn
là hình ảnh biểu tượng của chính đại
quang minh, của đại nhân quân tử. Yêu ma quỷ quái
là phản diện, tiêu biểu cho tiểu nhân, giả trá,
lọc lừa. Tề thiên vốn không từng lép vế
với cõi trời mà lại nhiều phen chịu ngậm
hờn cùng lũ quỷ. Trong cuộc đấu tranh
của con người với con người, từ nghìn xưa
đến nay, soi gương kim cổ, phải chăng ai cũng
thấy rằng ta không sợ đấu lý, đấu
tranh với người biết điều, đại
độ, chính trực, mà ta lại đều phải
sợ giáp mặt cùng kẻ hẹp hòi, ngu dốt,
chấp nê. Hai mặt trận với hai đối thủ
rõ ràng khác biệt!
Đọc Tây du hóa ra không phải đọc Tây
du, mà là đọc lại chính ta. Ngô Thừa Ân hóa ra
không phải Ngô Thừa Ân mà là mật ngữ siêu thoát
của Lão, Phật. Ngô là họ Ngô; Thừa là
thừa hưởng, thọ nhận; Ân là ân sâu
đức cả. Ai xưa kia đã thọ hưởng
được cái học của thánh hiền mà giác
ngộ, không nỡ đem giấu làm của báu tư riêng,
nên lấy cuộc văn chương, mượn trò
chữ nghĩa bày truyện Tây du? Thọ nhận ân
Ai mà Ngô Thừa Ân muốn đáp tạ ân Ai?
CLICK LINK DOWNLOAD SÁCH TẠI ĐÂY.
Thẻ từ khóa: Giải mã truyện tây du ký của Lê Anh Dũng, Giải mã truyện tây du ký, Lê Anh Dũng, Giải mã truyện tây du ký pdf